Tỉ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ độ tuổi học đường (5 - 19 tuổi) tăng gần gấp đôi trong vòng 10 năm (từ 8,5% năm 2010 lên 19% năm 2020).
Thông tin trên được BS.CKII Võ Đức Chiến - Giám đốc Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TP.HCM) cho biết tại hội thảo Giải pháp mới trong chẩn đoán và điều trị béo phì vào sáng 2/3.
Béo phì được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ công nhận là bệnh mạn tính đòi hỏi phải quản lý và điều trị lâu dài, bởi tình trạng này gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như: các bệnh lý tim mạch, đái tháo đường, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
Theo BS.CKII Võ Đức Chiến, tỷ lệ béo phì đang tăng mạnh ở Việt Nam. Nghiên cứu được công bố vào năm 2018 về bệnh không lây nhiễm, ăn uống và dinh dưỡng ở Việt Nam cho thấy, tần suất thừa cân, béo phì trên người lớn ở Việt Nam là 2,3% vào năm 1993 đã tăng lên là 15% vào năm 2015. Trong đó, tỷ lệ ở thành thị gấp gần 2 lần so với nông thôn (22,1% so với 11,2%).
Nghiên cứu cũng ghi nhận lối sống của người Việt Nam thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây. Đó là người Việt ít vận động hơn, trong chế độ ăn có nhiều muối, ăn nhiều tinh bột, dầu mỡ, uống nhiều nước ngọt, ăn ít rau.
Thống kê tại Việt Nam năm 2021 cho kết quả tương tự, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở Hà Nội và TP. HCM chiếm 18% tổng số lượng người thừa cân, béo phì trên toàn quốc.
Đáng lưu ý là tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em trong độ tuổi học đường (từ 5 - 19 tuổi) tăng từ 8,5% năm 2010 lên 19% năm 2020. Trong đó tỷ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.
Trước thực trạng đáng báo động trên, BS.CK II Thái Văn Hùng, Phòng khám Tư vấn và Điều trị Giảm cân, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương cho biết, béo phì và đái tháo đường có liên quan với nhau như "hình với bóng". Hiện nay, đái tháo đường đã trở thành đại dịch trên toàn thế giới với tỉ lệ mới mắc và tần suất lưu hành ngày càng gia tăng. Việt Nam cũng không ngoại lệ, tỉ lệ người mắc bệnh đái tháo đường ngày càng cao.
"Tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, phòng khám Nội tiết khám và điều trị cho khoảng gần 6.000 bệnh nhân đái tháo đường mỗi tháng, trong đó số người có bệnh đồng mắc như tăng huyết áp khoảng 70 - 80%, bệnh rối loạn mỡ máu khoảng 80% và khoảng 30% có tình trạng thừa cân béo phì", BS.CKII Võ Đức Chiến cho biết.
Bác sĩ Chiến nhấn mạnh, béo phì có tác động bất lợi lên tất cả các vấn đề sức khỏe, làm giảm thời gian sống còn, gây ra nhiều bệnh lý mạn tính không lây như: Đái tháo đường, bệnh lý tim mạch, tăng lipid máu, hội chứng ngưng thở lúc ngủ, làm giảm chất lượng sống...
Để khắc phục tình trạng béo phì, nhiều người đã tìm đủ mọi cách để giảm cân. Cụ thể, họ sử dụng nhiều loại thực phẩm chức năng, thuốc không rõ nguồn gốc, ảnh hưởng kéo dài đến sức khỏe và đời sống. Thực tế cho thấy, nhiều bệnh nhân đã phải nhập Bệnh viện Nguyễn Tri Phương cấp cứu trong tình trạng chân, tay sưng phù, xuất huyết tiêu hóa, suy gan cấp, chức năng thận suy kèm theo tình trạng rối loạn điện giải, đe dọa tính mạng do lạm dụng các sản phẩm hay viên uống giảm cân không rõ nguồn gốc, mua được trên các trang mạng xã hội.
Theo các chuyên gia y tế, nguyên nhân dẫn đến béo phì do tăng quá mức lượng năng lượng ăn vào; ăn một lượng thức ăn nhiều hơn nhu cầu của cơ thể; chế độ ăn giàu chất béo.
Trẻ em tiêu thụ quá nhiều chất ngọt làm tăng nguy cơ béo phì hoặc nuôi con bằng sữa mẹ ít hơn 3 tháng thường đi kèm với tăng nguy cơ béo phì ở trẻ em khi đến trường.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân do di truyền, hay do nội tiết như bệnh lý ác tính, viêm nhiễm, hội chứng béo phì, suy giáp, nguyên nhân mô bệnh học, nguyên nhân do dùng thuốc...
Bộ Y tế khuyến cáo, để giảm cân và mang lại lợi ích cho sức khỏe, có thể giảm cân 5-15% trong khoảng thời gian 6 tháng. Đối với những người có mức độ béo phì cao (BMI ≥ 35 kg/m2) có thể cân nhắc giảm cân nhiều hơn (20% trở lên).
Can thiệp lối sống là nền tảng đảm bảo duy trì giảm cân bền vững, an toàn bao gồm các biện pháp can thiệp dinh dưỡng, tập luyện thể lực, thay đổi hành vi, hỗ trợ tâm lý.
Điều trị bằng thuốc khi can thiệp lối sống trong 3 tháng không giúp giảm được 5% cân nặng, nhất là với người bệnh có BMI ≥ 25 kg/m2.
Phối hợp chặt chẽ nhiều chuyên khoa để đạt được hiệu quả điều trị và duy trì giảm cân bền vững.
Đánh giá chỉ số béo phì theo BMI
Chỉ số BMI của người lớn được tính như sau: BMI = trọng lượng (kg) ÷ (chiều cao x chiều cao)(m). Ví dụ: Một người cao 1,8m, nặng 75kg thì BMI = 72 ÷ (1.8 x 1.8) = 22,2
Dựa vào chỉ số BMI để đánh giá mức độ béo phì theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là:
- BMI < 18,5: Gầy
- BMI từ 18,5 – 24,9: Bình thường
- BMI từ 25 – 29,9: Tăng cân
- BMI từ 30 – 34,9: Béo phì độ 1
- BMI từ 35 – 39,9: Béo phì độ 2
- BMI ≥ 40: Béo phì độ 3
Tuy nhiên, để phù hợp với đặc điểm của người châu Á, nhiều nước trong đó có Việt Nam áp dụng theo bảng tiêu chuẩn dưới đây:
- BMI < 18,5: Gầy
- BMI từ 18,5 – 22,9: Bình thường
- BMI từ 23 – 24,9: Tăng cân (nguy cơ béo phì)
- BMI từ 25 – 29,9: Béo phì độ 1
- BMI ≥ 30: Béo phì độ 2
Chỉ số BMI không đo trực tiếp lượng mỡ trong cơ thể, do đó ở một số đối tượng như vận động viên thể hình có thể có chỉ số BMI cao mặc dù họ không có mỡ thừa.
Đối với trẻ em và thanh thiếu niên 5-19 tuổi, BMI sẽ được tính dựa vào giới tính và độ tuổi cụ thể, theo tiêu chuẩn của WHO. Đánh giá nhanh sự tăng trưởng của trẻ bằng công thức đánh giá của Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia.
Nguồn: Suckhoedoisong.vn.
Có 0 bình luận: