Loãng xương thường diễn biến âm thầm, không có biểu hiện gì đặc biệt, cho nên rất khó phát hiện. Thường chỉ được chẩn đoán khi bệnh đã nặng hoặc có biến chứng gãy xương. Lúc này chủ yếu là điều trị biến chứng và điều trị hậu quả do loãng xương gây ra, việc điều trị cũng chỉ góp phần làm giảm sự phát triển của bệnh.
Việc hiểu biết về bệnh loãng xương từ đó có các biện pháp dự phòng loãng xương là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó phát hiện và điều trị sớm cũng có tác dụng làm giảm biến chứng của loãng xương.
1. Bệnh loãng xương
Theo Tổ chức Y tế Thế giới 1993 loãng xương là một bệnh lý của xương, được đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương kèm theo hư biến cấu trúc của xương, dẫn đến tăng tính dễ gãy của xương, tức là có nguy cơ gãy xương. Cần đo mật độ xương để đánh giá nguy cơ gãy xương.
Loãng xương thực chất chính là hậu quả của sự rối loạn trong cân bằng tạo và hủy xương, trong đó quá trình hủy xương chiếm ưu thế. Hậu quả nặng nhất của loãng xương là gãy xương. Tuổi thọ trung bình càng cao, số người mắc bệnh ngày càng nhiều.
2. “Vòng đời” bộ xương của chúng ta trải qua 3 giai đoạn
Giai đoạn phát triển
Trẻ em khi mới sinh ra, có xương đã được cốt hóa (các xương dẹt như xương sọ, các xương ở mặt), có những xương chưa được cốt hóa hoàn toàn (các xương dài), trong khi có những xương tồn tại dưới dạng sụn suốt đời (các sụn sườn). Chính nhờ quá trình cốt hóa sụn đầu các xương dài mà làm cho xương dài ra, đồng nghĩa với việc giúp cơ thể phát triển về chiều cao.
Ở giai đoạn phát triển, quá trình tạo xương lớn hơn quá trình hủy xương, nhờ đó mà xương phát triển cả về chiều dài và chiều ngang. Quá trình này kéo dài cho đến khi cơ không lớn được nữa, thường ở khoảng 25 tuổi. Khối lượng xương phát triển đến một giá trị tối đa mà ở đó xương không phát triển thêm được nữa thì được gọi là khối lượng xương đỉnh. Khối lượng xương đỉnh có vai trò quan trọng đối với sức khỏe xương. Chỉ cần tăng khối lượng xương đỉnh thêm 10%, có thể giảm được khoảng 50% nguy cơ gãy xương do loãng xương trong suốt cuộc đời.
Trong giai đoạn phát triển, giai đoạn dậy thì có sự phát triển nhanh, mạnh về thể lực, chiều cao, tâm sinh lý. Trong đó quá trình cốt hóa sụn ở đầu các xương dài diễn ra mạnh. Hơn nữa, tuổi này trẻ hoạt động nhiều, nên cần phải có một chế độ dinh dưỡng thật tốt cho trẻ phát triển hết tiềm năng. Trong đó ngoài bổ sung các dưỡng chất cần thiết giúp tăng tái tạo xương như canxi, vitamin D, MK7, magie, kẽm… thì việc cung cấp chondroitin, thành phần giúp tăng tái tạo sụn cũng vô cùng quan trọng.
Giai đoạn cân bằng
Quá trình tạo xương và hủy xương cân bằng nhau, khi đó xương không phát triển thêm được nữa, nhưng cũng chưa xảy ra hiện tượng mất xương. Giai đoạn này thường vào khoảng 25 – 35 tuổi.
Giai đoạn mất xương
Sau 35 tuổi, cơ thể bắt đầu bước vào thời kỳ mất xương sinh lý, khi đó quá trình hủy xương chiếm ưu thế. Ở giai đoạn 35 – 40 tuổi, cơ thể mất đi khoảng 0,1 – 0,5% khối lượng xương mỗi năm, giai đoạn này còn gọi là thời kỳ mất xương chậm.
Sau tuổi 40, phụ nữ bắt đầu bước vào thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh, sự suy giảm hormon estrogen bắt đầu diễn ra. Estrogen là một nội tiết tố có vai trò vô cùng quan trọng đối với sức khỏe phụ nữ nói chung và sức khỏe xương nói riêng. Giai đoạn này, mỗi năm phụ nữ có thể mất khoảng 1 – 3% khối lượng xương (gọi là thời kỳ mất xương nhanh).
Ở nam giới, sau tuổi 40 cũng diễn ra sự mất xương nhưng chậm hơn so với phụ nữ. Đến khoảng sau 65 tuổi, khi đó mới có thể bị giảm mật độ xương và loãng xương.
Ngoài 70 tuổi do lão hóa của cơ thể, làm giảm khả năng hấp thu và vận chuyển canxi, do đó thiếu canxi và vitamin D, hậu quả tăng hủy xương và giảm tái tạo xương dẫn đến thiểu năng xương (đặc biệt xương đặc) làm tăng nguy cơ loãng xương. Tuổi này loãng xương gặp cả ở nam và nữ.
Những ai dễ mắc loãng xương?
- Phụ nữ tiền mãn kinh/ mãn kinh
- Người cao tuổi
- Những người có tiền sử còi xương, suy dinh dưỡng từ nhỏ
- Những người có thể trạng thấp bé, nhẹ cân
- Phụ nữ sinh nhiều con
- Những người mắc bệnh mãn tính như tiểu đường, suy thận, suy gan, cường giáp, viêm khớp mạn tính, viêm cột sống dính khớp,…
- Sử dụng thuốc glucocorticoid kéo dài
- Ngoài ra, ngay cả những người trẻ tuổi cũng có thể mắc loãng xương do thói quen sinh hoạt như ít vận động thể lực, uống nhiều rượu, bia, hút thuốc lá,…
3. Phân loại loãng xương theo nguyên nhân
Loãng xương được chia làm 2 loại là loãng xương nguyên phát và loãng xương thứ phát:
Loãng xương nguyên phát
Là loại loãng xương không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài tuổi tác và/ hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ. Nguyên nhân do quá trình lão hóa của tạo cốt bào, làm xuất hiện tình trạng mất cân bằng giữa hủy xương và tạo xương, gây nên thiểu sản xương. Loãng xương nguyên phát được chia làm hai týp.
Týp 1: loãng xương sau mãn kinh, thường gặp ở nữ khoảng từ 50 – 60 tuổi, đã mãn kinh.
Týp 2: loãng xương ở tuổi già, liên quan đến tuổi với sự mất cân bằng giữa tạo và hủy xương. Týp này gặp ở cả nam và nữ ở độ tuổi trên 70.
Loãng xương thứ phát
Loãng xương thứ phát là loãng xương do hậu quả của một số bệnh lý mạn tính gây ra như:
- Bệnh tiểu đường
- Suy thận
- Cường giáp
- Bất động kéo dài
- Tiền sử còi xương, suy dinh dưỡng
- Bệnh lý đường tiêu hóa làm giảm hấp thu canxi và chất dinh dưỡng
- Sử dụng thuốc corticoid kéo dài (rất thường gặp)
- Sử dụng thuốc chống đông máu nhóm kháng vitamin K kéo dài,…
4. Hậu quả cơ thể phải “gánh” khi bị loãng xương
Gãy xương
Gãy xương khi bị những chấn thương nhẹ là hậu quả cuối cùng của bệnh loãng xương. Gãy xương do loãng xương thường gặp ở các vị trí chịu lực của cơ thể như cột sống, thắt lưng và cổ xương đùi.
Trong các hậu quả của loãng xương thì gãy cổ xương đùi để lại hậu quả nặng nề nhất, là nguyên nhân dẫn đến tàn phế, sống phụ thuộc, thậm chí tử vong. Có đến 20% những người bị gãy cổ xương đùi do loãng xương tử vong trong vòng 1 năm đầu tiên.
Các bệnh lý đi kèm
Với người có tuổi, thường có nhiều bệnh lý của tuổi tác đi kèm như tim mạch, huyết áp, tiểu đường... và đặc biệt với tình trạng loãng xương nặng (thiếu chất khoáng và protein của xương) thì việc liền xương thường rất khó khăn, đa số người bệnh phải nằm tại chỗ nhiều ngày, thậm chí phải nằm điều trị dài ngày trong bệnh viện.
Kéo theo nhiều bất lợi cho sức khỏe
Việc nằm tại chỗ dài ngày khi gãy xương không những làm tình trạng loãng xương càng nặng lên mà còn kéo theo nhiều nguy cơ rất bất lợi cho sức khỏe người có tuổi như bội nhiễm đường hô hấp, đường tiết niệu, loét mục ở các điểm tỳ đè... Đây cũng là một nguyên nhân chính gây tàn phế và giảm tuổi thọ.
Gù lưng, giảm chiều cao
Loãng xương cũng có thể dẫn đến gù lưng, còng lưng, giảm chiều cao, gây khó khăn trong sinh hoạt và làm việc hàng ngày.
5. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây bệnh loãng xương
Di truyền
Người da đen ít bị loãng xương hơn người da trắng và người châu Á, người gầy hay bị loãng xương hơn, một số trường hợp loãng xương có tính chất gia đình.
Tuổi tác
Tuổi càng cao, mật độ xương càng giảm, hiện tượng mất xương theo tuổi đời đã được nhiều tác giả nghiên cứu chứng minh. Mật độ xương giảm dần theo tuổi và tỷ lệ gãy xương tăng theo tuổi, điều này do chức năng của tạo cốt bào suy giảm và suy giảm hấp thu calci ở ruột, giảm tái hấp thu calci ở ống thận.
Chế độ dinh dưỡng
Chế độ ăn không đầy đủ canxi sẽ ảnh hưởng đến sự đạt đỉnh khối lượng xương và sự mất xương sau này. Chế độ ăn nhiều photpho mà hàm lượng canxi thấp không tương xứng cũng sẽ đưa đến giảm mật độ xương. Chế độ ăn thiếu protein đưa đến giảm khối lượng xương rõ rệt, ngược lại nếu cung cấp quá nhiều protein cũng dẫn đến mất xương do làm tăng mức lọc cầu thận, giảm tái hấp thu canxi ở ống thận.
Ít vận động
Vận động cần thiết để duy trì mô xương, giảm vận động ở người lớn tuổi cũng là yếu tố nguy cơ dẫn đến sự mất xương. Sự vận động của các cơ kích thích sự tạo xương và tăng khối lượng xương. Ngược lại, sự giảm vận động dẫn tới mất xương nhanh.
Cân nặng
Trọng lượng cơ thể cũng ảnh hưởng tới mật độ xương. Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng, những người có cân nặng thấp có mật độ xương giảm so với những người có cân nặng bình thường.
Chiều cao
Nhiều nghiên cứu thấy rằng chiều cao có ảnh hưởng đến mật độ xương, chiều cao dưới 145cm là yếu tố nguy cơ gây lún đốt sống do loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh.
Ảnh hưởng của hormon
Có rất nhiều hormon trong cơ thể tác động đến quá trình chuyển hóa của xương.
Hormon cận giáp (parathyroid hormonE TSH)
Tác động chủ yếu trong quá trình tạo xương, PTH ức chế sự tổng hợp collagen hoặc chất căn bản của tạo cốt bào. Tuy nhiên, trên cơ thể người PTH có tác dụng kích thích sự tạo xương.
Calcitonin (CT)
Tác dụng chủ yếu là ức chế quá trình hủy xương nhưng không ảnh hưởng đến quá trình tạo xương.
Insulin
Là hormon do tế bào β của tụy bài tiết. Vai trò chính của insulin là làm hạ đường huyết. Trên xương, insulin điều hòa sự hủy xương, kích thích tổng hợp chất căn bản của xương và sự tạo sụn. Insulin là yếu tố rất cần thiết cho sự khoáng hóa bình thường của xương, thiếu insulin sẽ làm quá trình khoáng hóa xương và sự phát triển của xương giảm.
Hormon tăng trưởng (GH)
Không có tác dụng trực tiếp lên hủy và tạo xương, nhưng nó có thể kích thích sự tổng hợp IGF 1 (insulin like growth factor 1) của tế bào xương.
Glucocorticoid
Có tác dụng rõ rệt lên chuyển hóa xương và chất khoáng của xương. Trong cơ thể nó kích thích sự hủy xương và có lẽ làm giảm sự hấp thu canxi, tăng đào thải canxi và phospho ở thận, ảnh hưởng đến chuyển hóa vitamin D và làm tăng PTH. Sử dụng glucocorticoid kéo dài sẽ ức chế tổng hợp collagen do làm giảm sự sao chép của tiền tạo cốt bào dẫn đến mất nhiều tạo cốt bào gây loãng xương.
Hormon sinh dục
Ngày nay người ta đã biết rằng các hormon sinh dục giữ vai trò rất quan trọng trong sự trưởng thành của mô xương. Ảnh hưởng của androgen và estrogen trong việc phòng sự mất xương liên quan đến tuổi, đặc biệt với nữ giới trong giai đoạn mãn kinh. Trong cơ thể, estrogen có tác dụng ức chế hủy xương gián tiếp thông qua các hormon khác hoặc thông qua tác động của các yếu tố tăng trưởng tại chỗ. Một số nghiên cứu đã cho thấy trên bề mặt của tạo cốt bào có các thụ thể với estrogen và ảnh hưởng trực tiếp lên quá trình tạo xương. Ngoài ra, estrogen còn ảnh hưởng đến việc tạo ra các yếu tố tăng trưởng tại chỗ như IGF, cytokine, interleukin 1 tham gia vào quá trình tạo xương. Các hormon sinh dục nam và nữ (androgen và estrogen) cần thiết cho sự trưởng thành của mô xương và việc phòng ngừa mất xương theo tuổi. Ở nữ giới có sự thiếu hụt rất lớn lượng estrogen sau giai đoạn mãn kinh. Còn ở nam, tuổi càng cao thì lượng testosterone càng giảm do số tế bào Leydig bị giảm đi đáng kể. Ngoài việc giảm testosterone thì sự thiếu hụt estradiol cũng góp phần vào sự loãng xương ở nam giới.
Vitamin D (1,25 dihydroxy vitamin D3)
Chủ yếu được tổng hợp ở thận, có chức năng tương tự PTH. Vitamin D có tác dụng kích thích tủy xương và ức chế sự tổng hợp collagen hoặc chất căn bản của mô xương. Vitamin D rất cần thiết cho sự khoáng hóa bình thường của xương, mặc dù nó không kích thích trực tiếp lên sự tạo xương.
Các hormon tuyến giáp (thyroid hormones)
Rất cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của xương, chúng tác động lên sự tạo sụn trong sự liên kết với IGF1. Ngoài ra các hormon này còn có tác dụng kích thích sự hủy xương. Các hormon tuyến giáp không giữ vai trò trong việc kích thích tổng hợp chấp căn bản của mô xương hoặc sự sao chép của các tạo cốt bào.
Ảnh hưởng của các vitamin và khoáng chất khác
- Vitamin C: cần thiết để xây dựng sợi collagen, thiếu vitamin C sự tạo chất tiền xương bị cản trở đến mức có thể gây loãng xương.
- Photpho: thiếu photpho vì thiếu vitamin D hoặc nguyên nhân khác cản trở sự vô cơ hóa của chất tiền xương, cũng có thể sinh ra còi xương hoặc nhuyễn xương. Trong một vài điều kiện đặc biệt, thiếu photpho gây loãng xương do tăng hủy xương và giảm tạo xương.
- Vitamin K: vitamin K1 có vai trong tổng hợp các yếu tố đông máu ở gan, còn vitamin K2 giúp gắn canxi vào xương. Tác dụng này của vitamin K2 giúp cho xương chắc khỏe, đồng thời làm giảm canxi trong máu, ngăn cản quá trình vôi hóa trong mạch, giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Các đối tượng khác
Sử dụng một số thuốc (glucocorticoid, heparin...) kéo dài, uống rượu, hút thuốc lá, sinh đẻ nhiều lần,... đều có ảnh hưởng tới mật độ xương.
Các bệnh lý mạn tính
Cường giáp, cường cận giáp, Cushing, đái tháo đường, sau cắt dạ dày, ruột, rối loạn tiêu hóa kéo dài, suy thận, xơ gan, suy giáp, viêm khớp mạn tính.... cũng là nguyên nhân dễ mắc bệnh loãng xương.
6. Biểu hiện triệu chứng bệnh loãng xương
Hầu hết các tác giả khẳng định rằng tình trạng loãng xương thường tiến triển thầm lặng, những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi mật độ xương giảm trên 30%. Trong nhiều trường hợp, biểu hiện đầu tiên của loãng xương lại là gãy xương.
Các triệu chứng đầu tiên có thể là biểu hiện biến chứng của loãng xương:
- Hội chứng kích thích rễ thần kinh: có thể đau dọc theo dây thần kinh liên sườn, thần kinh tọa, nhưng không bao giờ gây hội chứng ép tủy.
- Xẹp đốt sống, đau lưng, đau thắt lưng
- Rối loạn tư thế cột sống: gù lưng, vẹo cột sống, cong đoạn cột sống lưng, thắt lưng.
- Gãy xương: các vị trí thường gặp là đầu trên xương đùi, đầu trên xương cánh tay, đầu dưới xương cẳng tay, xương sườn, xương chậu và xương cùng.
7. Chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn của WHO 1993
Cho đến nay biện pháp duy nhất để chẩn đoán loãng xương là đo mật độ xương. Trong đó phương pháp đo mật độ xương bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA) được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương.
Một số quan niệm sai lầm rằng, khi đo mật độ xương mà chỉ số T-score càng thấp thì mật độ xương càng thấp và như vậy là loãng xương càng nặng. Đúng là mật độ xương càng thấp thì loãng xương càng nặng, nhưng hiện nay chưa có biện pháp nào đo được mật độ xương trực tiếp của cơ thể. Các biện pháp hiện nay chỉ đo mật độ xương, sau đó so sánh với mật độ xương của nhóm người khỏe mạnh.
Mật độ xương BMD (Bone mineral density) theo chỉ số T (T-score) của một cá thể là chỉ số BMD của cá thể đó so với BMD của nhóm người trẻ tuổi (thường là nhóm khỏe mạnh, có khối lượng xương đỉnh, cùng chủng tộc) làm chứng. Trên cơ sở đó, có các giá trị của BMD như sau:
- BMD bình thường khi T-score > – 1: tức là BMD của đối tượng > – 1 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi.
- Giảm mật độ xương khi – 2,5 ≤ T-score ≤ – 1: tức là BMD từ – 2,5 đến – 1 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi.
- Loãng xương khi T-score < 2,5: tức là BMD dưới – 2,5 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi, ở bất kỳ vị trí nào của xương.
- Loãng xương nặng khi T-score < 2,5 và kèm theo gãy xương. Vị trí gãy hay gặp là cổ xương đùi, đốt sống cổ, đầu dưới xương cẳng tay.
8. Điều trị loãng xương
Bệnh loãng xương có thể được cải thiện nhờ một chế độ ăn uống sinh hoạt và sử dụng thuốc hợp lý.
Chế độ ăn uống, sinh hoạt
Cần duy trì một chế độ ăn uống đầy đủ, đa dạng, hợp lý phù hợp với nhu cầu của cơ thể trong từng giai đoạn, từng lứa tuổi, từng thói quen sinh hoạt.
Theo các nghiên cứu gần đây, chế độ ăn của dân ta nói chung rất thiếu canxi. Sữa và các sản phẩm từ sữa (bơ, phô mai..) giàu canxi chỉ chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong khẩu phần ăn của đa số dân ta và con số ít ỏi này cũng chỉ tập trung ở một số thành phố lớn.
Ở người có tuổi cần đặc biệt quan tâm đến các thành phần khoáng chất (nhất là canxi) và protein trong khẩu phần ăn vì ở người có tuổi khả năng ăn uống và hấp thu các chất dinh dưỡng và khoáng chất đều bị hạn chế. Chính vì vậy sữa là một loại thức ăn lý tưởng để cung cấp cả canxi và protein cho người có tuổi. Lượng sữa cần thiết mỗi ngày từ 500 đến 1.000ml (có thể là sữa tươi, sữa chua hoặc sữa pha từ sữa bột).
Cần duy trì một chế độ sinh hoạt đa dạng, năng động: vận động thể lực đều đặn, vừa sức, tăng cường các hoạt động thể lực ở ngoài trời. Việc vận động thường xuyên vừa có ích cho toàn cơ thể (hệ tim mạch, hệ hô hấp, hệ thống tiêu hóa...) vừa tác dụng tốt trực tiếp cho hệ thống xương cơ khớp, chống thoái hóa và chống loãng xương (do tăng cường hoạt động của tế bào sinh xương, tăng cường hấp thu canxi và protein).
Đối với người lớn tuổi cần hết sức tránh bị té ngã vì khi xương đã bị loãng, gãy xương sẽ rất dễ xảy ra, khi gãy lại rất khó liền. Việc bất động để điều trị gãy xương không những làm cho loãng xương nặng thêm mà còn là nguy cơ của nhiều bệnh lý do nằm lâu khác.
Điều trị bằng thuốc
Thuốc giảm đau chỉ dùng khi cần thiết, tùy mức độ có thể dùng các thuốc giảm đau đơn thuần (Paracetamol,...), hay dùng Calcitonin thuốc vừa có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương vừa có tác dụng giảm đau do hiện tượng loãng xương. Hạn chế dùng các thuốc kháng viêm giảm đau đặc biệt nhóm thuốc kháng viêm chứa Corticosteroids.
Cung cấp canxi theo nhu cầu của cơ thể ở từng lứa tuổi, từng trạng thái cơ thể... để bổ sung cho những thiếu hụt mà khẩu phần ăn hàng ngày chưa đáp ứng đủ (Ở người có tuổi, nhu cầu về canxi tăng mà khả năng hấp thu canxi ở ruột lại bị giảm sút, ở phụ nữ có thai, cho con bú, sau mãn kinh... nhu cầu canxi đều tăng...).
Trong mọi phác đồ, luôn phải cung cấp đủ canxi, trung bình 1.000mg mỗi ngày. Nếu chế độ ăn không đủ, cần cung cấp canxi dưới dạng thuốc. Người nhiều tuổi nên uống kết hợp canxi 1.000mg và vitamin D3 800 UI hàng ngày. Cung cấp vitamin D hoặc chất chuyển hóa của vitamin D (Calcitriol - Rocaltrol) để tăng cường khả năng hấp thu và sử dụng canxi của cơ thể.
Cung cấp Vitamin K2, trong đó Menaquinon 7 (1 loại Vitamin K2 trong tự nhiên có nguồn gốc từ Natto – chất lên men từ đậu nành, được người Nhật Bản sử dụng như thực phẩm) giúp “đặt” Canxi vào đúng chỗ cần và “kéo” Canxi ra khỏi chỗ không cần (thậm chí chỗ nguy hiểm). Chỗ cần là xương và máu, chỗ không cần là vôi hóa thành mạch, vôi hóa các mô mềm.
Dùng các thuốc để ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương, liệu pháp hormon thay thế (hormon sinh dục nữ cho phụ nữ sau mãn kinh), Canxitonin... theo chỉ định và theo dõi của thầy thuốc. Tốt nhất nên dùng Estrogen thảo dược như EstroG-100 để luôn an toàn, hiệu quả, không cần tới sự kê đơn của bác sĩ thay cho liệu pháp hormon thay thế.
Để có kết quả, việc điều trị loãng xương cần toàn diện, liên tục và lâu dài. Thời gian điều trị bệnh loãng xương phải được tính bằng năm chứ không tính được bằng tháng (để đánh giá kết quả điều trị, thường phải sau 2 năm) nên chi phí thường quá cao so với mức sống hiện nay của đa số nhân dân lao động. Chính vì vậy việc phòng ngừa bệnh có ý nghĩa rất lớn, cả về mặt hiệu quả và kinh tế.
Thuốc làm tăng mật độ xương
Hiện nay nhóm thuốc tăng mật độ xương được sử dụng rộng rãi nhất là nhóm bisphosphonate, bào chế dưới dạng viên uống hoặc dung dịch truyền tĩnh mạch. Loại viên uống phổ biến là Fosamax 70mg, mỗi tuần uống 1 viên. Loại truyền thì đóng chai 100ml, mỗi năm truyền 1 lọ.
Cơ chế tác dụng của thuốc này là ức chế hủy xương, trong khi quá trình tạo xương bình thường, kết quả là tăng mật độ xương. Mặc dù tác dụng như vậy, nhưng việc tăng mật độ xương là vô cùng khó khăn, nhất là người cao tuổi. Vì thế mà, điều trị loãng xương phải điều trị kéo dài hàng năm, thậm chí điều trị liên tục 4 – 5 năm.
Một điểm lưu ý là trước khi điều trị bằng thuốc ức chế hủy xương, phải cung cấp đầy đủ canxi và vitamin D cho cơ thể, tức là phải cung cấp đầy đủ nguyên liệu cho quá trình tạo xương. Ngoài ra, điều trị thuốc nhóm biphosphonat có rất nhiều tác dụng phụ, nhiều lưu ý khi sử dụng, nên trước khi điều trị phải được bác sĩ chuyên khoa khám và chỉ định, đặc biệt phải theo dõi sức khỏe định kỳ trong suốt quá trình điều trị, phát hiện sớm các biến chứng của thuốc để có biện pháp xử trí kịp thời.
Dự phòng loãng xương
Điều trị loãng xương đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và tốn kém, thời gian điều trị loãng xương được tính bằng năm chứ không phải chỉ điều trị vài tháng. Nhiều trường hợp điều trị 3 -5 năm nhưng kết quả thu được không như mong muốn. Biện pháp điều trị loãng xương tốt nhất là dự phòng loãng xương.
Mục tiêu dự phòng loãng xương là tối ưu hóa khối lượng đỉnh của xương ngay từ khi còn trẻ, duy trì mật độ xương và giảm mất xương khi về già. Do vậy cần dự phòng loãng xương càng sớm càng tốt, ngay từ khi còn trong bụng mẹ.
- Chế độ dinh dưỡng cần điều độ, đa dạng, cân đối và hợp lý. Bữa ăn cần cung cấp đủ năng lượng và protein như thịt, cá, trứng, sữa. Cần ăn cả các loại thức ăn giàu chất khoáng như canxi, magie, phospho, vitamin D.
- Cần ăn các loại sữa và sản phẩm sữa (sữa chua, phô mai, váng sữa...) vì chúng có hàm lượng canxi cao, canxi sữa có độ đồng nhất cao, dễ hấp thu. Vitamin D trong sữa giúp cơ thể hấp thu tốt hơn canxi.
- Đối với phụ nữ, ngoài các vitamin và dưỡng chất thiết yếu, việc bổ sung nội tiết tố nữ ở độ tuổi tiền mãn kinh cũng có vai trò rất quan trọng giúp xương chắc khỏe và dự phòng mất xương.
- Hạn chế uống rượu, bia, thuốc lá, cà phê; Vận động thể lực hợp lý; Tập thể dục, aerobic và tập thể dục có tải trọng,.... cũng có tác dụng tốt giúp xương chắc khỏe.
- Canxi đóng vai trò rất quan trọng giúp xương chắc khỏe. Tuy nhiên cơ thể chỉ cần 1 lượng vừa đủ, nếu thừa hoặc không hấp thu hết từ ruột vào máu sẽ gây nóng nhiệt, táo bón, sỏi thận. Cần chuyển hóa vào tận xương, canxi dư thừa trong máu sẽ gây xơ vữa động mạch, vôi hóa mô mềm. Bởi canxi trong cơ thể có tới 99% trong xương, răng, móng, chỉ 1% trong máu và cơ quan khác.
Nên chọn canxi nano giúp hấp thu tối đa, bổ sung vitamin D3 và MK7 giúp hấp thu và chuyển hóa canxi từ ruột vào máu và từ máu vào xương, hạn chế dư thừa trong ruột, trong máu gây tác dụng phụ.
MK7: Là vitamin K2 tự nhiên duy nhất, được chiết xuất từ đậu tương lên men theo phương pháp truyền thống Natto của Nhật Bản. MK7 được ví là “người lái xe” đưa canxi vào đúng nơi cần đến. Nếu không có MK7 (người lái xe) thì canxi sẽ đi vào bất kì mọi nơi. Nếu không có MK7, dù có vitamin D thì canxi sẽ chống lại bạn. Khi đó canxi thích gắn vào mô mềm, vào mạch máu (như động mạch vành tim, thận, tĩnh mạch) hơn là gắn vào xương của bạn, gây ra nhiều phiền hà cho con người (như nhiều bệnh xương khớp, vôi hóa mạch máu tạo vữa xơ động mạch, giãn tĩnh mạch, bệnh mạch vành tim, sỏi thận, suy thận, vôi hóa các mô liên kết, tạo vết nhăn v.v…)
MK7 không chỉ giúp xương chắc khỏe bằng cách đưa canxi từ máu vào xương, mà còn giúp xương dẻo dai, đàn hồi tốt hơn nhờ tác dụng tăng sản xuất Collagen trong xương.
Ngoài canxi, xương cần thêm các khoáng chất khác để phát triển chắc khỏe, đó là: Magie, mangan, kẽm, đồng, Boron, Silic (trong cỏ đuôi ngựa), cần chondroitin và Silic để tăng tạo sụn, cần acid folic và DHA để tăng khối xương.
Hãy gọi: 1900.1259 – 0896.509.509 hoặc gửi câu hỏi về hòm thư điện tử khoedep@bacsituvan.vn để được các chuyên gia tư vấn miễn phí về bệnh loãng xương và cách giúp hỗ trợ điều trị hiệu quả.
Có 0 bình luận: